Thời kỳ đổi mới, hội nhập và phát triển

Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đất nước bước vào thời kỳ Đổi mới


Trường Đại học Giao thông vận tải năm 1995

 

Từ thời điểm này số lượng Giáo viên được thi tuyển và đi làm nghiên cứu sinh ở nước ngoài tăng nhanh. Nhiều bộ môn đã có phó tiến sỹ, tạo điều kiện để mở rộng đào tạo sau đại học.

Thực hiện Nghị quyết 14 NQ-TW ngày 11/10/1979 của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục, từ năm học 1987- 1988 trở đi, quy mô ngành nghề và hình thức đào tạo của trường đã có sự thay đổi theo hướng đa dạng hoá các loại hình và mềm hoá quá trình đào tạo cho phù hợp với với yêu cầu của cơ chế thị trường trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.

Trên cơ sở đó, Nhà trường đã nghiên cứu và xây dựng được danh mục ngành nghề đào tạo gồm 7 ngành với 23 chuyên ngành; tổ chức đào tạo đại học dài hạn theo hệ chuẩn và áp dụng quy trình đào tạo 2 giai đoạn (giai đoạn I thực hiện việc học chung theo nhóm ngành, kết thúc giai đoạn I cấp chứng chỉ Đại học đại cương và tổ chức thi chuyển giai đoạn; giai đoạn II thực hiện việc phân ngành); giảng dạy theo học phần; phát huy tính tích cực và chủ động của sinh viên trong học tập. Cũng từ năm học 1987- 1988, Nhà trường từng bước chuyển việc tổ chức quá trình đào tạo từ niên chế thuần tuý sang học chế học phần kết hợp với niên chế.

Ngoài hệ dài hạn, chuyên tu, chuyển cấp, dự bị đại học... đã có từ trước, Nhà trường mở thêm một số loại hình đào tạo khác như hệ mở rộng, ngắn hạn; đào tạo tại chức theo hình thức hợp đồng với địa phương và cơ sở sản xuất, đồng thời nhận nhiệm vụ đào tạo cán bộ KHKT về GTVT cho Cam-pu-chia.

Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Trần Hồng Quân giao nhiệm vụ đào tạo theo chương trình Cải cách giáo dục cho Trường

Từ năm 1986 trở đi, công tác NCKH của trường thực hiện theo chu trình kín “Khoa học- Kỹ thuật- Sản xuất”, coi trọng việc nghiên cứu trên cả 3 lĩnh vực: Khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội; đặc biệt ưu tiên những đề tài ứng dụng tiến bộ KH-KT trực tiếp phục vụ sản xuất, quản lý kinh tế, đời sống, nâng cao chất lượng đào tạo. Trường cũng khuyến khích việc liên kết và hợp tác trong nghiên cứu giữa các ngành, chuyên ngành của Trường với các đơn vị, cơ sở sản xuất, cơ quan quản lý ngoài trường. Với phương châm và mục tiêu trên, chỉ trong 4 năm (1986- 1990), trường đã tiến hành 12 đề tài cấp Nhà nước, 72 đề tài cấp Bộ và nhiều đề tài cấp trường. Thông qua các hoạt động NCKH và lao động sản xuất đã tạo nên uy tín của trường đối với xã hội, góp phần tạo thêm cơ sở vật chất phục vụ đào tạo, cải thiện một phần đời sống CB-GV-CNV và SV.

Hội nghị tổng kết quy hoạch GTVT cấp huyện

Cùng với việc đẩy mạnh công tác đào tạo, NCKH, Nhà trường cũng khẩn trương bắt tay vào xây dựng cơ sở vật chất theo hướng ổn định và lâu dài. Ngay từ năm 1975- 1976, Nhà trường đã xây dựng quy hoạch trên cả 3 khu đất của Trường (Cầu Giấy, Voi Phục, Láng), củng cố nhà cũ, bố trí sắp xếp lại nơi ăn ở, làm việc, học tập; sửa sang mặt bằng, đường đi lối lại; mở rộng Thư viện, Xưởng thực tập; xây dựng nhà học 5 tầng...

Các phòng thí nghiệm, mô hình cũng được mở rộng, ngoài số máy móc thiết bị có từ trước, năm 1990 Trường đã nhận được sự giúp đỡ một số trang thiết bị thí nghiệm của Trường Đại học Đường sắt Mat-xcơ-va. Xưởng Thực tập từng bước được trang bị đủ máy móc cho sinh viên thực tập. Thư viện đã có trên 10 vạn cuốn sách đáp ứng một phần nhu cầu học tập và tự nghiên cứu của sinh viên. Bàn ghế, tủ, bảng, phương tiện làm việc của các đơn vị được trang bị tương đối đầy đủ. Nhà ở của CB-GV- CNV được cải thiện, đã xây dựng được một số nhà cao tầng ở khu Thành Công ( Nhà K5), Voi Phục ( Nhà V1, V2, V3)...

Năm 1990, Nhà trường khởi công xây dựng giảng đường 7 tầng tại khu Cầu Giấy.

Thầy Đỗ Doãn Hải – Hiệu trưởng Nhà trường đóng cọc mốc xây dựng giảng đường 7 tầng năm 1990

Giảng đường 7 tầng năm 1997

Do yêu cầu đào tạo cán bộ kỹ thuật về giao thông vận tải ở các tỉnh phía Nam, tháng 12 năm 1988, Nhà trường đã lập đề án đề nghị Bộ Đại học - THCN và Dạy nghề (Nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) và Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cho mở Cơ sở II tại TP Hồ Chí Minh. Ngày 27 tháng 4 năm 1990, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Quyết định số 139/TCCB chính thức thành lập Cơ sở II của Trường đóng tại huyện Thủ Đức- Tp Hồ Chí Minh với nhiệm vụ: Đào tạo cán bộ  Đại học về xây dựng giao thông, cơ khí giao thông, điện khí hoá giao thông và kinh tế vận tải đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường không. Ngoài ra có nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất của ngành Giao thông vận tải, Bưu chính- Viễn thông ở Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam. Kỳ tuyển sinh đầu tiên tại Cơ sở II được tổ chức tháng 7 năm 1989.

Cơ sở II – Ngày đầu thành lập

Tiếp tục thực hiện việc cải cách giáo dục, từ năm học 1993- 1994, Nhà trường tập trung cho việc đổi mới mục tiêu chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy. Các Hội đồng ngành và chuyên ngành đã tiến hành xây dựng mục tiêu chương trình và kế hoạch giảng dạy theo diện rộng, dạy những điều mà người học cần, xã hội cần, nền kinh tế cần chứ không phải chỉ dạy cái người thầy đang có. Theo mục tiêu đó, đã thực hiện mềm hoá các nội dung đào tạo bằng cách xây dựng 3 loại học phần: Học phần bắt buộc, học phần tự chọn theo hướng dẫn và học phần tự chọn tuỳ ý.

Đến năm học 1995- 1996, Trường đã xây dựng xong chương trình đào tạo giai đoạn 2 cho 12 ngành với 23 chuyên ngành, biên soạn đề cương chi tiết cho 1.620 đơn vị học trình; dần chuyển việc đào tạo theo học chế học phần kết hợp với niên chế sang học chế học phần triệt để. Cũng từ năm học này, để nâng cao chất lượng đào tạo, Trường ngừng tuyển sinh hệ mở rộng và ngắn hạn. Từ năm học 1998- 1999, thực hiện quyết định của Bộ về bỏ quy định cứng trong đào tạo 2 giai đoạn, Hội đồng Khoa học và Đào tạo trường nhanh chóng xây dựng nội dung, chương trình đào tạo mới; đã hoàn chỉnh chương trình đào tạo cho 10 ngành với 27 chuyên ngành, 7 chương trình đào tạo bằng 2, 6 chương trình đào tạo chuyển đổi từ ngắn hạn sang dài hạn, 2 chương trình chuyển đổi từ Cao đẳng lên Đại học, đồng thời bước đầu áp dụng công nghệ mới trong đào tạo như: Đào tạo theo học phần triệt để cho 2 ngành Cơ khí và Công trình, tổ chức thi theo phương pháp “Trắc nghiệm khách quan” cho một số môn học. Quy mô đào tạo trong giai đoạn này cũng phát triển nhanh chóng với nhiều loại hình như đào tạo chính quy, đào tạo tại chức, đào tạo theo địa chỉ…

Cùng với đào tạo đại học, việc đổi mới mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo sau  đại học cũng được tiến hành. Công tác đào tạo Tiến sỹ theo các chuyên ngành đã được Bộ cho phép vẫn tiếp tục duy trì. Từ năm học 1992- 1993, Nhà trường đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép đào tạo Cao học thuộc 3 nhóm ngành: Cơ khí giao thông, Xây dựng công trình giao thông và Quản trị kinh doanh giao thông vận tải. Hoạt động này đã góp phần nâng cao trình độ của đội ngũ giảng viên của Nhà trường và phù hợp với nhu cầu của các cán bộ kỹ thuật trong ngành Giao thông vận tải.

Hội nghị đào tạo kỹ sư ngành ô tô

Công tác nghiên cứu khoa học trong giai đoạn này tiếp tục có những bước phát triển rất đáng phấn khởi. Mỗi năm Trường tiến hành nghiên cứu nhiều đề tài cấp Nhà nước, 30- 40 đề tài cấp Bộ và cấp Bộ trọng điểm, 30- 40 đề tài cấp trường. Chất lượng các đề tài nghiên cứu ngày càng được nâng cao, nhiều đề tài đã đạt giải thưởng cao như 2 giải Nhất Giải thưởng công nghệ Quốc gia (VIFOTEC) năm 1996, 1997 (Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo máy ép cọc bấc thấm và Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo trạm trộn Bê tông nhựa nóng công suất lớn).

Máy ép cọc bấc thấm (năm 1996) Công trình nghiên cứu khoa học của Trường đạt giải VIFOTEC

Trạm trộn bê tông nhựa nóng (năm 1997) – Công trình nghiên cứu khoa học của Trường đạt giải VIFOTEC

Nhiều đề tài được áp dụng vào thực tiễn và mang lại hiệu quả lớn đối với sản xuất như Cầu dây văng, Bê tông siêu dẻo, Chiến lược hiện đại hoá GTVT Việt Nam...

Các đề tài nghiên cứu cũng góp phần quan trọng để bồi dưỡng đội ngũ, nâng cao năng lực quản lý Nhà trường. Số lượng đề tài NCKH của sinh viên không ngừng tăng, hàng năm có từ 200- 300 đề tài nghiên cứu có chất lượng tốt, thu hút hàng nghìn sinh viên tham gia.  

Hội nghị nghiên cứu khoa học sinh viên năm học 1998 - 1999

Đây cũng là thời kỳ mở rộng và phát triển mạnh của công tác lao động sản xuất. Nhiều công ty, trung tâm như Công ty TNHH Giao thông vận tải, Trung tâm tư vấn và thực nghiệm công trình, Trung tâm tư vấn thiết kế và thực nghiệm ôtô….đã được hình thành, mở ra một hướng đi mới trong việc kết hợp giảng dạy, nghiên cứu khoa học và lao động sản xuất. Hội nghị Khoa học và Lao động sản xuất được tổ chức định kỳ. Tạp chí thông tin khoa học được xuất bản mỗi năm 02 số.

Hội nghị Khoa học công nghệ sản xuất lần thứ XI năm 1993

Hội nghị Trao đổi hướng hoạt động của các trung tâm KHCN đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển Trường giai đoạn 1987-2000

Đội ngũ Giảng viên và Cán bộ quản lý của trường không ngừng được bổ sung cả về số lượng lẫn chất lượng. Hàng năm, nhà trường tuyển mới hàng trăm Giảng viên; gửi đi đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, khả năng sư phạm ở trong nước và ở nước ngoài. Không chỉ quan tâm nâng cao trình độ chuyên môn mà công tác tuyên truyền, giáo dục xây dựng đội ngũ cũng được chú trọng.

Hội thảo đổi mới công tác tuyên truyền giáo dục xây dựng đội ngũ CN-VC trong Trường Đại học

Cơ sở vật chất của Nhà trường trong giai đoạn này có những bước phát triển vượt bậc. Từ một giảng đường 5 tầng duy nhất được xây dựng vào đầu những năm đất nước thống nhất, đến nay, hệ thống phòng học của trường đã tương đối hoàn chỉnh; xoá bỏ hoàn toàn phòng học cấp 4. Trang thiết bị thí nghiệm được bổ sung, nâng cấp theo hướng hiện đại hoá, đã có được một số phòng thí nghiệm đồng bộ, đạt tiêu chuẩn quốc gia.


Phòng học Ngoại ngữ với trang thiết bị nghe nhìn và giảng viên nước ngoài

Phòng học máy tính năm 1998

Điều kiện làm việc của CB-GV-CNV được cải thiện. Các hoạt động văn hoá, thể dục, thể thao được tổ chức thường xuyên với nhiều hình thức phong phú.


Tiết mục văn nghệ chào mừng năm học mới


Giải bóng đá Trường năm 1996

Trong công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế, Nhà trường tiếp tục duy trì các quan hệ hợp tác truyền thống với các trường Đại học của Nga, Pháp, Đức... đặc biệt là tăng cường quan hệ với nước bạn Lào và Cam-pu- chia. Nhà trường tiếp nhận nhiều sinh viên của 2 nước sang học tập; cử chuyên gia sang giúp CHDCND Lào trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học.


Ký kết văn bản hợp tác với Trường Đại học Đường sắt Matxcơva 1985

Ký kết văn bản hợp tác với Lào

Ký kết văn bản hợp tác với Campuchia

Hoạt động của Công đoàn, Đoàn Thanh niên có nhiều nét đổi mới, phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế sau khi hệ thống các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ, làm cho CB-GV-CNV và sinh viên củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự thành công của công cuộc đổi mới.

Diễn đàn sinh viên trao đổi kinh nghiệm, phương pháp học tập

Sinh viên Trường tham gia đóng góp ý kiến vào dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX